Ải
Chi Lăng nằm cách Hà Nội khoảng 105km, thuộc hai huyện Chi Lăng và Hữu Lũng,
tỉnh Lạng Sơn- là một thung lũng hẹp hình bầu dục nằm giữa hai dãy núi: phía
Tây là núi đá Kai Kinh nằm bên dòng sông Thương và phía Đông là núi đất Bảo
Đài- Thái Hòa.
Trải
khắp thung lũng gần đó và án ngữ ven đường cái quan còn có nhiều ngọn núi thấp
như: Kỳ Lân, Mã Yên, Hàm Quỷ, Phượng Hoàng, Nà Nông, Nà Sản… Ở hai đầu thung
lũng, nơi hai dãy núi đá phía Tây và núi đất phía Đông khép lại gần nhau là lũy
Ải Quỷ phía Bắc và núi Ngõ Thề phía Nam . Những núi đó tạo ra một hùng
quan dài 5km, rộng khoảng 3km, rất hiểm trở.
Từ
xa xưa, con người đã để lại ở Chi Lăng vết tích của nền văn hóa Bắc Sơn-Mai
Pha, với những hang động cực kỳ đẹp cùng những mảnh rìu đá, mảnh gốm nổi tiếng…
Với địa thế hiểm yếu, qua bao nhiêu triều đại, Ải Chi Lăng là phên dậu đầu tiên
trấn giữ kinh thành Thăng Long, gắn liền với lịch sử chiến tranh vệ quốc hào
hùng với những chiến công vang dội của dân tộc Việt Nam chống lại sự xâm lược
của các triều đại phong kiến phương Bắc.
Năm
1077, sau khi được Thái úy Lý Thường Kiệt đích thân đến bàn bạc, chỉ đạo binh
cơ, dựa vào chiến tuyến Quyết Lý và Giáp Khẩu (dựng tại Chi Lăng), phò mã Thân
Cảnh Phúc và quân dân Lạng Sơn đã cùng quân đội nhà Lý đánh tan quân Tống xâm
lược lần thứ hai. Năm 1284, tướng Nguyên là Nghê Nhuận khi qua Ải Chi Lăng đã
bị phục binh nhà Trần chặn đánh bằng hố bẫy ngựa và giết chết tại chỗ. Nhưng
chiến công oanh liệt nhất là vào cuối năm 1427 khi cuộc kháng chiến chống quân
Minh do Lê Lợi- Nguyễn Trãi lãnh đạo sắp bước vào giai đoạn kết thúc. Quân viện
binh của nhà Minh do An Viễn hầu Liễu Thăng chỉ huy đã rơi vào ổ phục kích của
tướng Lê Sát tại núi Mã Yên. Liễu Thăng bị chém bay đầu tại trận, đạo quân cứu
viện tan vỡ hoàn toàn. Vương Thông ở thành Đông Quan hay tin chấp nhận đầu
hàng. Đất nước sạch bóng quân thù. Đến thế kỷ XVIII, dưới thời Hoàng đế Quang
Trung, Chi Lăng lại một lần nữa cùng quân dân cả nước đánh tan tành quân xâm
lược nhà Thanh…
Một
dấu tích khác đáng ghi nhận tại Ải Chi Lăng là nền Thành Chi Lăng do quân Minh
xây dựng vào thế kỷ 15. Phía Nam Ải có một khối đá có hình dáng giống một thanh
kiếm khổng lồ gọi là Lê Tổ Kiếm (thanh kiếm của vua Lê Thái Tổ) và một tượng đá
có hình dáng giống một người quỳ gối, cụt đầu gọi là Liễu Thăng Thạch (đá Liễu
Thăng). Tượng đá gợi nhớ chiến thắng Chi Lăng chém đầu tướng Liễu Thăng cách
nay gần 700 năm). Cạnh Ải Chi Lăng còn có Quỷ Môn Quan. Theo sách “Vân đài loại
ngữ” của Lê Quý Đôn, đời nhà Tấn (265-420) binh lính giặc qua đó bị giết nhiều
nên mới có câu “Quỷ Môn Quan, Quỷ Môn Quan! Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn” (Quỷ
Môn Quan, Quỷ Môn Quan! Mười người đến chỉ một người trở về). Nơi đây xưa kia
đường sá hẹp, núi đá hiểm trở, sông sâu nước độc. Những đoàn sứ bộ nước ta mỗi
khi sang Trung Hoa đều dừng lại tại Quỷ Môn Quan trước khi tiến đến Ải Nam Quan.
Ngày
nay, tại Ải Chi Lăng có Tượng đài kỷ niệm chiến thắng Chi Lăng và Khu Di tích
lịch sử Chi Lăng bao gồm 52 điểm kéo dài gần 20km, phần lớn thuộc hai xã Chi
Lăng và Quang Lang. Khu di tích này chủ yếu tái hiện lại chiến thắng Chi Lăng
oai hùng năm 1427 và đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa- Thể Thao
và Du lịch) xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia. Ở Khu di tích lịch sử này còn có
Bia chiến thắng và Bảo tàng Chi Lăng được xây dựng vào năm 1982, nhân kỷ niệm
555 năm Chiến thắng Chi Lăng.
Đến
thăm Ải Chi Lăng, nhiều du khách trong và ngoài nước không chỉ chiêm ngưỡng
được cảnh đẹp, địa thế hiểm trở với chiến lũy hình thang độc nhất trên thế giới
mà còn cảm nhận được trí tuệ và lòng quả cảm của dân tộc Việt Nam trong suốt
mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước. Một bài học lớn từ Ải Chi Lăng và cũng là
nghệ thuật quân sự của cha ông ta chính là: “Lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch
nhiều”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét